Các phân tử ADN sợi kép có một tính chất đặc biệt là khả năng biến tính (phân tách thành hai mạch đơn) và hồi tính (hai mạch đơn có trình tự bổ trợ có xu hướng liên kết trở lại khi vắng mặt các tác nhân gây biến tính). Khả năng liên kết bổ trợ giữa các bazơ nitơ cũng cho phép hai mạch ADN có nguồn gốc khác nhau nhưng có trình tự bổ trợ liên kết với nhau trong điều kiện phù hợp (về nhiệt độ, độ pH, ion hóa P) để tạo nên một phân tử ADN mới. Hiện tượng liên kết như vậy cũng có thể xảy ra giữa hai mạch ADN với nhau, hoặc giữa hai mạch ARN hoặc giữa ADN và ARN. Phân tử axit nucleic sợi kép mới hình thành được gọi là phân tử lai và quá trình kết cặp giữa các bazơ thuộc hai mạch đơn axit nucleic có nguồn gốc khác nhau theo nguyên tắc bổ trợ như vậy được gọi là quá trình lai phân tử.
Nhiều kỹ thuật trong nghiên cứu di truyền phân tử được dựa trên nguyên tắc lai phân tử. Chẳng hạn, bằng nguyên tắc này người ta có thể dùng một trình tự ADN biết trước để xác định một trình tự bổ trợ tương ứng có trong hệ gen của mẫu phân tích. Phân đoạn ADN có trình tự biết trước dùng trong phản ứng lai như vậy được gọi là mẫu dò. Các mẫu dò có thể có nguồn gốc từ các phân đoạn ADN trong tự nhiên hoặc được tổng hợp theo nguyên tắc hóa học, và để nhận biết được chúng, các mẫu dò thường được đánh dấu với các chất phóng xạ hoặc phát huỳnh quang (ở đây, gọi tắt là chất phát quang).
Có hai phương pháp đánh dấu mẫu dò ADN. Phương pháp thứ nhất dùng nguyên tắc tổng hợp hóa học phân tử ADN mới với tiền chất là các phân tử đánh dấu. Phương pháp thứ hai là gắn một phân tử đánh dấu vào đuôi của một trình tự ADN có sẵn. Chẳng hạn, bằng việc sử dụng enzym polynucleotide kinase, người ta có thể bổ sung nhóm phosphat g của ATP vào nhóm 5’- OH của một phân tử ADN định đánh dấu. Nếu nhóm phosphat này được đánh dấu bằng đồng vị phóng xạ 32P thì phân tử ADN sẽ được dánh dấu phóng xạ.
Phương pháp đánh dấu ADN thứ hai (sử dụng các tiền chất đánh dấu) thường được thực hiện dựa trên phản ứng PCR, hoặc đôi khi chỉ cần sử dụng các đoạn mồi ngắn rồi cho enzym ADN polymerase thực hiện phản ứng kéo dài chuỗi. Các tiền chất đánh dấu được sử dụng thường là 1 trong 4 loại nucleotit được cải biến thành dạng được đánh dấu bằng cách gắn với các nhóm chất phát quang hoặc nguyên tử phóng xạ. Với phương pháp này, khoảng 25% nucleotit trong phân tử ADN được đánh dấu và điều đó đủ đáp ứng hầu hết các nhu cầu nghiên cứu khác nhau.
Các phân tử ADN đánh dấu với các tiền chất phát quang được phát hiện bằng cách chiếu xạ mẫu ADN với ánh sáng UV có bước sóng phù hợp và đo ở bước sóng phát xạ tương ứng. Các phân tử ADN được đánh dấu phóng xạ thường được phát hiện bằng cách chụp mẫu ADN với phim tia X, hoặc đo bằng máy khuếch đại tín hiệu hạt b từ các nguyên tố phóng xạ 32P và 35S (đây là hai nguyên tố phóng xạ được sử dụng phổ biến để dánh dấu ADN).
Trong các nghiên cứu di truyền học phân tử hiện nay, có nhiều cách để xác định các phân đoạn ADN và ARN đặc hiệu dựa trên các phương pháp lai. Ở đây, chúng ta chỉ đề cập đến hai phương pháp được dùng phổ biến:
Xác định các phân đoạn ADN và ARN bằng điện di và mẫu dò
Phương pháp sử dụng mẫu dò kết hợp với điện di là một phương pháp cơ bản có thể giúp xác định mức độ phổ biến hoặc kích thước của một đoạn trình tự ADN hoăc ARN được quan tâm nghiên cứu. Chẳng hạn như bằng kỹ thuật này, người ta có thể xác định và so sánh được mức biểu hiện của một gen ở các loại tế bào và mô khác nhau thông qua định lượng bản phiên mã mARN tương ứng của gen đó tại các tế bào và mô tương ứng; hay như để xác định kích thước của một đoạn ADN cắt giới hạn mang trình tự gen được quan tâm nghiên cứu.
Giả sử chúng ta cắt hệ gen của nấm men bằng enzym giới hạn EcoRI và cần xác định được kích thước của phân đoạn ADN cắt giới hạn mang trình gen A. Sản phẩm ADN tổng số sau khi được cắt bằng EcoRI sẽ tạo ra một số lượng lớn các phân đoạn có kích thước xấp xỉ 4 kb (vì 46 = 4096 bp). Vì vậy, nếu đem sản phẩm cắt giới hạn nhuộm với
EtBr, thì sản phẩm điện di sẽ là một dải các phân đoạn liên tục có kích thước xấp xỉ 4 kb, và không thể xác định được chính xác phân đoạn nào mang gen A. Trong trường hợp đó, kỹ thuật thẩm tách Southern (còn gọi là lai Southern) có thể được dùng để xác định phân đoạn mang gen đó. Lúc này, người ta sẽ đem sản phẩm cắt giới hạn ngâm vào một dung dịch có tính kiềm để làm biến tính các phân đoạn ADN sợi kép. Các phân đoạn này sau đó được chuyển sang một màng tích điện dương gọi là màng “thẩm tách” theo hình thức “đóng dấu”. Nghĩa là các phân đoạn ADN định vị trên màng thẩm tách sẽ tương ứng với các phân đoạn định vị trên gel điện di. Các phân đoạn ADN gắn trên màng thẩm tách sau đó được ủ với mẫu dò là phân đoạn ADN chứa một đoạn trình tự đặc trưng bổ trợ với trình tự của gen A. Quá trình ủ được tiến hành trong điều kiện về nhiệt độ và nồng độ muối tương ứng với sự biến tính và hồi tính của axit nucleic. Trong điều kiện đó, các mẫu dò sẽ chỉ lai đặc hiệu với phân đoạn ADN mang gen A. Do các phân đoạn gen có kích thước thường lớn hơn nhiều so với mẫu dò, nên khả năng hồi tính khó xảy ra hơn khả năng lai với mẫu dò. Sau đó, nhờ phương pháp phóng xạ tự chụp (mẫu dò được đánh dấu phóng xạ), các phân đoạn ADN bắt cặp với các mẫu dò có thể được xác định và phân lập rõ ràng. Các phân đoạn này chính là các phân đoạn mang trình tự gen A cần phân tích.
Một phương pháp tương tự như vậy cũng có thể được áp dụng trực tiếp để phân tích các sản phẩm phiên mã của gen là mARN, và được gọi là phương pháp thẩm tách Northern (lai Northern). Tuy vậy, vì so với ADN các phân tử mARN thường có kích thước ngắn hơn (khoảng 5 kb), nên trong thẩm tách Northern, các phân tử mARN không cần cắt bằng enzym giới hạn (nếu có cắt thì số vị trí cắt giới hạn của một enzym trên phân tử mARN thường thấp). Các phân tử mARN sau khi phân tách bằng điện di được chuyển lên màng tích điện dương và lai với các mẫu dò ADN có trình tự bổ trợ tương ứng thường được đánh dấu phóng xạ (trong trường hợp này, sản phẩm lai là do sự kết cặp của các bazơ nitơ thuộc hai mạch ARN và ADN có trình tự bổ trợ).
Trong thực tiễn nghiên cứu, phương pháp thẩm tách Northern thường được sử dụng để định lượng một loại phân tử mARN nhất định nào đó có trong một mẫu phân tích, hơn là để xác định kích thước của nó. Lượng mARN được xác định được xem như thông số cơ bản phản ánh mức độ biểu hiện của gen mã hóa tương ứng. Chẳng hạn như, bằng phương pháp thẩm tách Northern, các nhà nghiên cứu có thể đánh giá được ảnh hưởng của một tác nhân phiên mã nào đó đến sự biểu hiện của một gen nhất định khi tiến hành so sánh lượng mARN do gen đó mã hóa có trong các tế bào được xử lý và không được xử lý với tác nhân phiên mã. Tương tự như vậy, kỹ thuật này cho phép xác định và so sánh mức độ biểu hiện của các gen khác nhau ở các loại tế bào, mô và cơ quan khác nhau của cùng một cơ thể trong cùng một giai đoạn hoặc ở các giai đoạn khác nhau của quá trình phát triển cơ thể.
Trong kỹ thuật thẩm tách Northern, mẫu dò thường được đưa vào phản ứng lai với một lượng dư vừa đủ để đảm bảo lượng phân tử lai tạo thành tương ứng với lượng mARN có mặt trong các mẫu nghiên cứu. Hay nói cách khác, qua lượng sản phẩm lai, có thể định lượng được lượng mARN.
Nguyên lý của các phương pháp lai Northern và Southern cũng chính là cơ sở của các kỹ thuật phân tích gen bằng vi dãy phản ứng (microarray) được phát triển và ngày các được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu di truyền học phân tử gần đây. Trong các phương pháp microarray, các mẫu dò thường là các đoạn cADN được tạo ra từ việc phiên mã ngược các phân tử mARN tương ứng được tách chiết từ các mô hoặc tế bào. Các mẫu dò này sau đó được tiến hành lai với một dãy các phân tử ADN, trong đó mỗi dãy thường liên quan đến một hoặc một số gen khác nhau trong cơ thể sinh vật nghiên cứu. Cường độ biểu hiệu của sản phẩm lai (nhờ sự có mặt của các phân tử đánh dấu) ở các dãy khác nhau sẽ góp phần phản ánh mức độ biểu hiện khác nhau của các gen phân tích.
Nguồn: thuviensinhhoc.com
0 nhận xét:
Đăng nhận xét