Home » , » Di truyền học thể thực khuẩn (Bacteriophage hay phage) (p2)

Di truyền học thể thực khuẩn (Bacteriophage hay phage) (p2)

3. Sự sắp xếp của các gene trong nhiễm sắc thể phage

Tần số tái tổ hợp có thể được sử dụng để xác định khoảng cách của bản đồ ở Eukaryote. Các thí nghiệm lập bản đồ cho thấy đột biến ở T4 được lập bản đồ thành 3 cụm riêng biệt. Cả ba cụm này có liên kết với một cụm khác. George Streisinger và cộng sự (1964) đã chứng minh bản đồ di truyền của phage T4 có dạng vòng tròn. Trong mỗi phép lai, lập ba đến bốn marker di truyền lần lượt với mỗi nhóm và tiến hành qua toàn bộ genome của T4. Nhiều gene khác đã được xác định  và lập bản  đồ  đầy đủ  trên  phân tử vòng  tròn .  Những vùng ở vòng tròn bên trong là 3 cụm của marker T4 đã được xác định và lập bản đồ di truyền. Vòng ngoài có mặt của nhiều bộ marker lớn tạo thành toàn bộ vòng tròn của bản đồ di truyền. Bản đồ di truyền phage T4 cho thấy gene của phage T4 tạo cụm mở rộng theo chức năng của chúng. Chẳng hạn có cụm lớn các gene dùng  cho sao chép DNA  ở vị trí phần tư bên trên phía phải và có cụm gene tổng hợp các cấu phần tạo nên đầu của phage ở phía dưới của vòng tròn.

Phân tử DNA của phage T4 là phân tử sợi đơn dạng thẳng, mỗi đầu tận  cùng  của  DNA  phage  T4  được  nhân  lên  hoặc  lặp  đoạn  ở  đầu  cuối (terminal redundant). Do vậy,  mỗi phân tử DNA có kích thước tăng thêm 2%. Khi DNA được sao chép trong tế bào, sự tái tổ hợp giữa các phần ở đầu tận cùng của bộ gen T4 với những trình tự tương đồng của bộ gen T4 khác, kết  quả  tạo  ra  sản  phẩm  DNA  có  kích  thước  lớn  hơn  khả  năng  chứa  của phần  đầu.  Những  phân  tử  chứa  lặp  đoạn  được  tạo  thành  vì  sự  tái  tổ  hợp trong bộ gen của phage T4 xảy ra thường xuyên, trung bình có khoảng 20%sự kiện tái tổ hợp xảy ra trên một nhiễm sắc thể. Khi phân tử DNA được gói vào  phần  đầu,  nó  được  cắt  bằng  enzyme  chỉ  còn  chứa  khoảng  102%  của  chiều dài bộ gen phage T4, vì có chứa đoạn lặp lại của phần đầu.
http://thuviensinhhoc.violet.vn/uploads/resources/blog/652/-098_500.jpg
Bản đồ di truyền của T4 với các marker

4. Lập bản đồ cấu trúc tinh vi vùng rII của phage T4

Các nghiên cứu chi tiết về các đột biến rII của phage T4 làm sáng tỏ hơn về cấu trúc gene. Phage T4 ở dạng hoang dại r+ có khả năng nhiễm đồng thời hai nòi   E.coliB và K. Các đột biến rII chỉ nhiễm nòi B nhưng không nhiễm  nòi  K.  Seymour  Benzer  (1955)  đã  nhận  được  2400  đột  biến  rII  có nguồn gốc độc lập với nhau. Ông đã cho lai các đột biến với nhau và căn cứ vào sự xuất hiện các dạng tái tổ hợp hoang dại r+ mà lập bản đồ các điểm đột biến.

Mỗi  đột  biến  có  thể  tái  tổ  hợp  với  các  đột  biến  khác.  Đột  biến  mất đoạn ngăn cản sự tái tổ hợp với hai hoặc nhiều đột biến điểm ở các vị trí khác nhau của gene. Mỗi mất đoạn làm mất một phần bộ gene của phage bao gồm cả vùng rII. Sử dụng đột biến mất đoạn là phương pháp đơn giản để lập bản đồ của hàng ngàn đột biến. Bản đồ mất đoạn (Deletion mapping) dựa trên sự có hoặc không có dạng tái tổ hợp. Trong bất kỳ phép lai nào giữa một đột biến điểm chưa biết và một đột biến mất đoạn, sự xuất hiện của dạng hoang dại cho thấy đột biến điểm nằm ngoài vùng mất đoạn. Ngược lại, nếu đột biến điểm xuất hiện trong vùng mất đoạn, không xuất hiện dạng tái tổ hợp kiểu hoang dại ở thế hệ sau.
http://thuviensinhhoc.violet.vn/uploads/resources/blog/652/-099_500.jpg
Đột biến mất đoạn được sử dụng để chia locus rII của bacteriophage

T4 thành 7 vùng và 47 tiểu vùng nhỏ

Nhiều phép lai đã được thực hiện để lập bản đồ đột biến chi tiết gene rII. Khoảng cách từ A1 đến A6 và B được trình bày ở hình 8.4. Một đột biến đặc biệt đã được kiểm tra định vị ở vùng A4. Đột biến này không tái tổ hợp tạo dạng kiểu dại trong phép lai với các đột biến mất đoạn lớn như r1272, r1241, rJ3 và rPT1 nhưng nó có thể tái tổ hợp tạo dạng kiểu dại trong phép lai  với  rPB242,  rA105  và  r638.  Các  đột  biến  được  tạo  ra  bởi  cùng  một khuôn, kết quả lai với các đột biến mất đoạn lớn sẽ được xếp vào vùng A4. Bản đồ di truyền trong vùng A4 có thể được tạo ra bởi một bộ các đột biến mất đoạn được trình bày ở phần dưới của hình. Xác định 7 tiểu vùng ở trong A4 (từ a qua g).

Xác định vùng rII liên quan với các marker di truyền dạng thẳng

của bản đồ di truyền phage T4

Ví dụ, một đột biến trong vùng A4 kết quả tái tổ hợp tạo dạng kiểu dại với đột biến mất đoạn r1368, nhưng lại không thể thực hiện được với đột biến r221 sẽ được sắp vào tiểu vùng c. Ở mức độ chi tiết hơn, các đột biến trong một tiểu vùng được sắp xếp nhờ lai giữa chúng với nhau. Ở phage T4, các điểm đột biến ở rất gần nhau, được tách nhau nhờ tái tổ hợp. 1% tái tổ hợp tương ứng với khoảng cách khoảng 100 bp. Vì vậy, bất kỳ hai đột biến không thể tái tổ hợp được với nhau có thể được xếp vào cùng vị trí trong gene.  Bản  đồ  di  truyền  cho  số  lớn  các  đột  biến  rII  có  nguồn  gốc  độc  lập được mô tả ở hình.

Nghiên cứu đột biến ở vùng rII và lập bản đồ di truyền có vai trò quan trọng, qua đó có thể rút ra các kết luận sau:

+ Sự  trao  đổi di truyền  có thể  xảy ra trong  gene và có  thể giữa  các nucleotide ở gần nhau.
+ Các đột biến không được tạo ra ở cùng tần số với tất cả các điểm trong gene, chúng phân bố không đều nhau. Chẳng hạn, 2400 đột biến rII đã được xác định chỉ ở 304 điểm. Một trong những điểm này có thể có đến 474 đột biến . Nhũng điểm có tần số đột biến cao như thế được gọi là các điểm nóng (hotspot mutation). Ở những điểm khác, đột biến được phục hồi một lần hoặc vài lần.
http://thuviensinhhoc.violet.vn/uploads/resources/blog/652/-101_500.jpg
Bản đồ di truyền locus rII của phage T4

Kết quả phân tích vùng rII rất quan trọng, giúp cho chúng ta phân biết được 3  khái  niệm  về gene.  Phổ  biến  nhất,  gene liên  quan với  một  đơn vị chức năng. Điều này tương ứng với một đoạn DNA mã hóa cho một phân tử protein.  Benzer  đưa  ra  thuật  ngữ  cistron  để  chỉ  chức  năng  này,  thuật  ngữ cistron thỉnh thoảng vẫn được sử dụng. Đơn vị chức năng được xác định qua thử  nghiệm  bổ  sung  (complementation  test),  xác  định  được  2  đột  biến  có allele với nhau không.

Trước thí nghiệm của ông rII được coi là một locus. Thí nghiệm cho thấy các đột biến xếp thành hai nhóm rIIA và rIIB. Lai các đột biến rIIA x

rIIB sẽ có r+, nhưng lai rIIA ´ rIIA và rIIB ´ rIIB thì thu được kiểu hình đột biến r.

Ngoài nghĩa là đơn vị chức năng, gene còn là đơn vị tái tổ hợp (recon)

và đơn vị đột biến (muton). Cả hai đơn vị này,  đều tương ứng với những nucleotide riêng lẽ trong gene.

5. Tính tiềm tan (Lysogeny) và phage lamda

Chu  trình  tiềm  tan  bắt  đầu  khi  phân  tử  DNA  của  phage lamda  gắn  vào nhiễm sắc thể của vi khuẩn  và tiến hành sao chép như một phần nhiễm sắc thể vi khuẩn. Các hạt phage không được tạo thành. Phân tử DNA của phage được gắn vào bộ gen của vi khuẩn được gọi là prophage, tế bào vi khuẩn sống  sót  được  gọi  là  tế  bào  tiềm  tan  (lysogen).  Một  chủng  tiềm  tan  cho phage lamda được ký  hiệu theo tên của phage. Ví  dụ chủng  E. coliK12(l) là chủng K12 trở thành tế bào tiềm tan của phage lamda.
http://thuviensinhhoc.violet.vn/uploads/resources/blog/652/-102_500.jpg
Chu trình tan và tiềm tan ở phage

Phân  tử  DNA  của  phage lamda  có  đầu  các  đầu  cuối  chứa  12  nucleotide không kết cặp, mà ở dạng sợi đơn tạo đầu dính  (cohesive end) bổ sung. Khi vào tế bào, đầu cuối bổ sung gắn lại tạo phân tử vòng tròn. Sự tạo vòng tròn xảy ra sớm ở cả chu trình tan và chu trình tiềm tan . Có khoảng 75% tế bào vi khuẩn bị nhiễm phage, phân tử DNA vòng tròn sao chép và chu trình tan xảy ra tiếp  theo. Còn khoảng 25%  tế bào bị nhiễm, phân tử DNA vòng tròn của phage l và phân tử DNA vòng tròn của E. colitương tác và xảy ra tái  tổ hợp điểm chuyên  biệt (site-specific recombination)  và DNA của phage gắn vào nhiễm sắc thể của vi khuẩn.

Vị trí của tái tổ hợp điểm chuyên biệt ở DNA của vi khuẩn và phage được  gọi  là  điểm  gắn  vào  của  vi  khuẩn  và  phage  (bacterial  and  phage attachment sites). Mỗi điểm gắn có chứa 3 đoạn: ở đoạn trung tâm có cùng trình tự nucleotide ở cả 2 vị trí gắn và là vùng mà sự tái tổ hợp thực sự xảy ra. Điểm gắn vào của phage được ký hiệu bởi POP’ (P: phage) và điểm gắn vào ở vi khuẩn được biểu diễn bằng BOB’ (B: bacteria). So sánh bản đồ di truyền của phage và prophage POP’ nằm gần vùng trung tâm của phân tử DNA dạng thẳng. Một protein của phage, integrase, xúc tác cho tái tổ hợp điểm chuyên biệt. Enzyme integrase nhận ra điểm gắn vào của phage và vi khuẩn, gây ra sự trao đổi vật lý, kết quả là phân tử DNA của phage gắn vào phân tử DNA của vi khuẩn. Kết quả của sự tái tổ hợp làm bản đồ di truyền của  prophage  khác  với  bản  đồ  di  truyền  của  phage.  Bản  đồ  di  truyền prophage là sự chuyển đổi vòng tròn bản đồ di truyền phage tự do. Prophage được chèn vào nhiễm sắc thể của E. coligiữa gene galvà gene bio. Sự chèn vào của phage l làm tăng khoảng cách giữa gene galvà gene bio. Khoảng cách giữa gene galvà gene bioở tế bào tiềm tan với phage l là khoảng hai phút so với một phút ở tế bào không tiềm tan.


http://thuviensinhhoc.violet.vn/uploads/resources/blog/652/-103_500.jpg
Mô hình gắn của phage lamda vào NST của E.coli

Khi tế bào tiềm tan, các gene của phage trở thành một phần nhiễm sắc thể  của  vi  khuẩn  vì  vậy  có  thể  làm  kiểu  hình  của  vi  khuẩn  bị  thay  đổi. Nhưng hầu hết các gene của phage ở prophage đều được giữ ở trạng thái bất hoạt nhờ protein repressor - sản phẩm của gene ở phage. Protein repressor được bắt đầu tổng hợp nhờ sự nhiễm vào của phage và nó được tiếp tục tổng hợp  nhờ  prophage.  Gene  mã  hóa  cho  repressor  thường  chỉ  là  gene  của prophage được biểu hiện ở chu trình tiềm tan. Nếu tế bào tiềm tan bị nhiễm bởi phage giống với prophage, sự có mặt của repressor trong prophage ngăn cản  sự  biểu  hiện  các  gene  của  phage  nhiễm  vào.  Tính  kháng  với  những phage giống với prophage được gọi là tính miễn nhiễm (immunity). Đây là tiêu  chuẩn  để  xác  định  tế  bào  vi  khuẩn  chứa  phage  đặc  biệt.  Chẳng  hạn phage l không tạo đốm trên vi khuẩn chứa prophage lamda. Trong tế bào tiềm tan, sự sao chép không giải phóng các phage mới. Tuy nhiên, các prophage đôi khi trở nên có hoạt tính, trải qua chu trình tan, tạo ra số lượng lớn phage ở thế hệ sau. Hiện tượng này được gọi là sự cảm ứng prophage (prophage induction),  nó  được  bắt  đầu  bằng  sự  hư  hại  DNA  của  vi  khuẩn.  Đôi  khi prophage có thể tách ra khỏi DNA của vi khuẩn một cách ngẫu nhiên nhưng thường nó được gây ra do các tác nhân của môi trường như hóa chất hoặc chiếu xạ. Khả năng bị cảm ứng là một thuận lợi cho phage bởi vì DNA của phage có thể thoát khỏi tế bào bị hư hại. Cơ chế sinh hóa của sự cảm ứng là phức tạp nhưng sự thoát ra của phage xảy ra dễ dàng.

Sự cắt ra của phage là sự tái tổ hợp điểm chuyên biệt khác, ngược với quá  trình  gắn vào.  Sự  cắt  này  yêu  cầu  enzyme  của  phage,  integrase thêm protein của phage là excisionase. Nghiên cứu di truyền của sự gắn vật lý cho thấy  escisionase  gắn  với  integrase  và  sau  đó  nhận  ra  điểm  gắn  vào  của prophage BOP’ và POB’, gắn với các điểm này. Integrase cắt ở trình tự O và tạo ra lại BOB’ và POP’. Quá trình tách diễn ra ngược lại với sự gắn vào.

Nguồn: thuviensinhhoc.com

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

kkkp[[[[[[[
Được tạo bởi Blogger.