Home » , » Cơ chế gây đột biến điểm

Cơ chế gây đột biến điểm

Khi kiểm tra dãy đột biến được gây tạo bới các tác nhân đột biến khác nhau cho thấy mỗi tác nhân đột biến được đặc trưng bởi một đặc tính đột biến khác nhau hay "preference" về cả một dạng đột biến nhất định và một điểm đột biến nhất định, được gọi là điểm dễ xảy ra đột biến (mutational hot spots). Đặc tính đột biến như thế được chú ý  lần đầu tiên ở locus rII của bacteriophage T4.


Tác nhân đột biến hoạt động ít nhất qua ba cơ chế khác nhau: chúng có thể làm thay thế một base trong DNA; làm biến đổi một base gây kết cặp nhầm với một base khác; làm sai hỏng một base, dẫn đến không thể kết cặp với bất kỳ base nào trong điều kiện bình thường.


Đột  biến  thay  thế  base:  một  vài  hợp  chất  hóa  học  tương  tự  nitrogen base bình thường của DNA, đôi khi chúng có thể gắn vào DNA thay cho base bình thường. Những chất như thế được gọi là các chất tương đương với base (base analogs). Các chất tương đương này kết cặp không như sự kết cặp của các base bình thường. Vì vậy chúng có thể gây ra đột biến do gắn vào một nucleotide không đúng trong quá trình sao chép.


Để hiểu hoạt động của các chất tương đương base, trước hết cần phải xem xét khuynh hướng tự nhiên của các base đối với sự hình thành các dạng khác nhau. Mỗi base trong phân tử DNA có thể xuất hiện ở một trong số nhiều dạng được gọi là tautomers, chúng là các đồng phân khác nhau ở vị trí nguyên tử và những liên kết giữa các nguyên tử. Dạng keto của mỗi base thường có trong DNA, trong khi dạng imino và enol của base là hiếm. Tautomer imino hoặc enol có thể kết cặp sai với base tạo một kết  cặp  nhầm  (mispair).  Khả  năng  kết  cặp  nhầm  như  thế  gây  ra  đột  biến trong quá trình sao chép  được chú ý đầu tiên bởi Watson và Crick khi các tác giả này nghiên cứu công thức về mô hình cấu trúc DNA.


Sự kết cặp nhầm có thể sinh ra ngẫu nhiên, nhưng cũng có thể sinh ra khi base bị ion hóa. Tác nhân gây đột biến 5-Bromouracil (5-BrU) là chất tương đương với thymine, có brome ở vị trí carbon số 5 thay cho nhóm -CH3 của thymine. Hoạt tính của nó dựa trên quá tình inolization và ionization.


Ở dạng keto, 5-BrU kết cặp với adenin như trường hợp thymine. Tuy nhiên, sự có mặt của nguyên tử bromine làm thay đổi một cách có ý nghĩa sự phân bố  electron  ở  vòng  base.  Vì  vậy  5-BrU  có  thể  chuyển  sang  dạng  enol  và dạng ion, và nó có thể kết cặp với guanine như trường hợp cytosine tạo ra cặp 5-BrU-G. Trong lần nhân đôi tiếp theo G kết cặp với C, tạo cặp G-C thay cho cặp A-T. Kết quả gây ra đột biến đồng hoán. Tương tự 5-BrU cũng có thể gây ra đột biến đồng hoán A-T thay cho cặp G-C.



http://www.mediafire.com/imgbnc.php/569ec5c565b27fb2a66fa52537ded0a15g.jpg


Chứng minh một vài kết cặp nhầm có thể xảy ra do kết quả của sự thay đổi 1 tautomer thành 1 tautomer khác


Một hóa chất gây đột biến khác là 2-amino-purine (2-AP), là hóa chất tương đương adenine, có thể kết cặp với thymine. Khi bị proton hóa, 2-AP có thể kết cặp nhầm với cytosine,  có thể gây ra thế hệ sau đột biến đồng hoán G-C thay cho A-T   do kết cặp nhầm với cytosine trong lần sao chép tiếp theo.


Thay thế base (base alteration)



http://www.mediafire.com/imgbnc.php/ddaf37c45d6af0d4e04cfd9445e8690e5g.jpg


Sự kết cặp nhầm chuyên biệt do đột biến cảm ứng alkyl hoá


Một  vài  tác  nhân  đột  biến  không  gắn  vào  DNA,  mà  lại  làm  biến  đổi base gây ra sự kết cặp sai. Tác nhân alkyl được sử dụng phổ biến như là tác nhân đột   biến, chẳng   hạn như   ethylmethanesulfonate (EMS)  và nitrosoguanidine (NG) gây đột biến theo cách này.


Những tác nhân như thế sẽ thêm nhóm alkyl (nhóm ethyl trong trường hợp EMS  và nhóm  methyl  trong trường  hợp NG)  ở nhiều  vị trí  trên cả  4 base. Tuy nhiên, đột biến hầu như chỉ xảy ra khi nhóm alkyl được thêm vào ở oxy số 6 của guanine tạo ra O-6-alkylguanine. Sự alkyl hóa này dẫn đến sự kết cặp nhầm   với thymine . Kết quả sinh ra đột biến đồng hoán G-C->A-T trong lần sao chép tiếp theo.


Tác  nhân  xen  vào  giữa  (intercalating  agents)  là  nhóm  tác  nhân  quan trong  khác  gây  biến  đổi  DNA.  Nhóm  của  các  hợp  chất  này  bao  gồm proflavin,  acridin  cam  và  một  nhóm  các  hợp  chất  hóa  học  khác.  Các  tác nhân này là nhóm các phân tử bắt chước các cặp base và có thể xen vào giữa các nitrogen base ở lõi chuỗi xoắn kép DNA. Ở vị trí xen vào này chúng gây sự thêm vào hoặc mất đi một cặp nucleotide.


Sai  hỏng  base:  Một  số  lớn  tác  nhân  đột  biến  gây  sai  hỏng  một  hoặc nhiều base. Vì vậy không thể kết cặp với base đặc trưng. Kết quả làm cản trở sự sao chép vì DNA polymerase không thể tiếp tục quá trình tổng hợp DNA qua những base sai hỏng. Ở E.coliquá trình này xảy ra đòi hỏi hoạt tính của hệ thống SOS. Hệ thống này được kích thích như là một phản ứng khẩn cấp ngăn cản sự chết tế bào khi DNA bị sai hỏng nặng.



* Cơ chế của đột biến ngẫu nhiên

Đột biến ngẫu nhiên xảy ra do nhiều nguyên nhân: gồm sai hỏng trong quá trình sao chép DNA, các tổn thương ngẫu nhiên, sự chen vào của yếu tố di động. Đột biến ngẫu nhiên hiếm nên khó xác định cơ chế cơ bản. Tuy nhiên, một vài hệ thống chọn lọc cho phép thu được đột biến ngẫu nhiên và phân tích ở mức độ phân tử. Từ bản chất của những thay đổi trình tự có thể suy ra quá trình dẫn đến đột biến ngẫu nhiên.


Những sai hỏng ngẫu nhiên (spontaneous lesions) đến DNA có thể sinh ra đột biến. Hai tổn thương ngẫu nhiên thường xuất hiện nhất: depurination và deamination, trong đó depurination phổ biến hơn.


Depurination  do  tác  dụng  của  aflatoxin,  làm  mất  một  base  purine. Ngoài ra, quá trình mất purine cũng xảy ra một cách tự nhiên. Một tế bào động vật mất ngẫu nhiên khoảng 10.000 purine của DNA trong một thế hệ tế bào khoảng 20 giờ ở 37oC. Nếu tổn thương này được giữ lại, dẫn đến sai hỏng di truyền đáng kể vì trong quá trình sao chép, vị trí mất purine không thể định rõ được loại base nào. Trong những điều kiện nhất định một base có thể chèn vào tạo ra đột biến.


Deamination  của  cytosine  tạo  ra  uracil.  Uracil  sẽ  kết  cặp  với  adenin trong  quá  trình  sao  chép,  kết  quả  tạo  ra  đột  biến  đồng  hoán  G-C®  A-T. Deamination  5-methylcytosine  tạo  ra  thymine .  Quá  trình  sao chép tạo ra đột biến đồng hoán chuyển C thành T.


Ngoài 2 quá trình gây sai hỏng như trên, sự oxy hóa tạo ra các base bị sai  hỏng  là  dạng  tổn  thương  thứ  ba..  Dạng  oxygen  hoạt  động  như  gốc superoxid (O2.-), hydrogen peroxide (H2O2) và gốc hydroxyl (.OH) được tạo ra do sản phẩm của quá trình chuyển hóa (aerobic metabolism). Các dạng này có thể gây tổn thương oxy hóa đến DNA, kết quả tạo ra đột biến.




http://www.mediafire.com/imgbnc.php/d9d0dba5c106b4900bdd063525a2e2c05g.jpg

Deamination của Cytosine (a) và 5-methylcytosine


Các sai hỏng trong sao chép DNA cũng là nguồn đột biến khác.



Thay thế base: sai hỏng trong sao chép DNA có thể xảy ra khi có một cặp nucleotide ghép không chính xác (như A-C) tạo ra trong quá trình tổng hợp DNA dẫn đến sự thay thế một base.
Đột biến thêm vào và mất base: Một loại sai hỏng sao chép khác dẫn đến thêm vào hoặc mất đị một hoặc một số cặp base. Trong trường hợp số base  thêm  vào  hoặc  mất  đi  không  chia  hết  cho  3,  sẽ  tạo  ra  đột  biến  dịch khung trong vùng mã hóa protein.

Nguồn: thuviensinhhoc.com

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

kkkp[[[[[[[
Được tạo bởi Blogger.