Home » , » Đột biến câu trúc nhiễm sắc thể

Đột biến câu trúc nhiễm sắc thể

Các   đột   biến   cấu   trúc   NST   hay   còn   gọi   là   sai   hình   NST (chromosome structure) hay cấu trúc lại NST (chromosome rearrangement) được phát hiện bằng phương pháp tế bào học. Các đột biến loại này thực chất là sắp xếp lại các gen hoặc giảm hay tăng liều lượng gen.



http://www.mediafire.com/imgbnc.php/0643f1f2481fc1bf2852af469874e5555g.jpg

Cơ chế phát sinh một số đột biến cấu trúc nhiễm sắt thể


http://www.mediafire.com/imgbnc.php/a8386c7413208177022793d2a80147d45g.jpg
Các dạng đột biến nhiễm sắc thể

Các sai hình NST có thể chia thành 2 loại:
Bên trong NST: mất đoạn, đảo đoạn, tăng đoạn
Giữa các NST: chuyển đoạn


1. Biến đổi cấu trúc trên một NST:
1.1. Sự phát sinh các đột biến cấu trúc trên NST


Sai hình NST liên quan đến sự đứt đoạn của NST. Có khi 1 NST bị đứt ra quá 2 đoạn và sau đó được nối lại nhưng thường không giữ cấu trúc cũ. Điều đó dẫn đến nhiều kiểu đột biến cấu trúc NST khác nhau. Các đoạn vòng tròn không tâm động thường bị mất đi trong phân bào. Có thể xảy ra trường hợp 2 đoạn có tâm động nối nhau, khi phân bào sẽ bị kéo căng ra 2 đầu thành cầu chromatid và sau đó bị đứt ra không đều tạo ra một cái mất đoạn và cái kia tăng đoạn.


1.2. Mất đoạn



http://www.mediafire.com/imgbnc.php/a863a051e934242e5c0252432cd16a305g.jpg

Sự thiếu một đoạn NST gồm 2 loại: mất đoạn (deletion) ở giữa NST và mất đỉnh (deficiency). Đoạn NST bị mất nếu nhỏ có thể mang 1 gen hoặc một phần gen. Trong trường hợp này hiệu quả kiểu hình có thể giống như xuất hiện alen đột biến ở locus đó. Các mất đoạn không có đột biến nghịch, bởi vì đoạn NST bị mất khó ngẫu nhiên được gắn trở lại do đột biến. Nhờ đó mất đoạn có thể phân biệt với đột biến gen.


Sự mất một đoạn dài NST thường gây chết do sự mất cân bằng di truyền của bộ gen. Sự mất đỉnh của đoạn NST mang gen trội A cho phép alen lặn a có biểu hiện kiểu hình. Khi một sinh vật dị hợp tử (Aa), sự mất đoạn có A thì alen lặn a trên NST   kia   có   biểu   hiện   kiểu   hình.   Hiện   tượng   này   gọi   là   "giả   trội" (Pseudodominant),  thật  ra  locus  tương  ứng  ở  trạng  thái  bán  dị  hợp  tử (Hemizygote)


Tiếp hợp ở giảm phân I khi có mất đoạn
Sự mất đoạn ở cá thể dị hợp có thể phát hiện ở kì trước của giảm phân I khi các NST tương đồng bắt cặp. Nếu có mất đoạn sẽ thấy xuất hiện một vòng tròn do không có đoạn NST tương đồng.


Ví dụ về đột biến mất đoạn ở người: khi mất vai ngắn của NST số 5, karyotype 46,XY,del(5p) dẫn đến hội chứng mèo kêu (Cri du chat). Trẻ sơ sinh bị hội chứng này có tiếng khác như mèo kêu. Bệnh được gặp với tần số 1/50.000  trẻ,  biểu  hiện  chậm  trí,  đầu  nhỏ  và  hiếm  khi  sống  được  tới  lúc trưởng thành. Sự  mất  một  phần  vai  dài  của  NST  số  22  (được  gọi  là  NST Philadelphia, lấy tên thành phố nơi phát hiện ra đầu tiên). Nó được tìm thấy ở  tế  bào  tủy  xương  (cùng  với  các  tế  bào  có  NST  bình  thường)  của  90% những  người  bệnh  bạch  huyết  myelocyt  kinh  niên  (một  dạng  ung  thư). Thường đoạn bị mất đó được chuyển đến một NST dài hơn (thường là NST số 9).


1.3. Lặp đoạn (tăng đoạn - Duplication)


Các lặp đoạn NST có thể tăng lên bằng nhiều cách khác nhau. Nói chung sự lặp đoạn không gây hậu quả nặng nề như mất đoạn, thậm chí một số lặp đoạn có lợi cho tiến hóa là tạo vật liệu di truyền mới.


Lặp đoạn có thể ở cạnh nhau, xa nhau trên cũng một NST hay ở vào các NST khác. Nhờ lặp đoạn có thể nghiên cứu ảnh hưởng của số lượng và vị trí khác mức bình thường của một đoạn NST hay gen. Kiểu hình của lặp đoạn có khi trội, có khi lặn hay trung gian hoặc có tác động tích lũy.


Trường hợp điển hình về lặp đoạn là đột biến trội mắt thỏi Bar (B) nằm  trên  NST  X  của  Drosophila.  Trường  hợp  tăng  một  đoạn,  dị  hợp  tử +/Bar  thì  mắt  bé  hơn  bình  thường  một  ít,  hẹp  cạnh  nên  có  dạng  kéo  dài. Ruồi đồng hợp BB có mắt nhỏ hơn. Nếu lặp đoạn đôi, tăng hơn bình thưòng 2 đoạn sẽ là đột biến Bar kép, có kiểu hình mắt nhỏ hơn nữa nên gọi là "thỏi kép". Số đoạn lặp lại có thể đến 7 đoạn thành "siêu Bar" mắt nhỏ nhất.


Gen mắt thỏi B có tác động gia tăng theo chiều giảm kích thước mắt, số đoạn lặp càng nhiều, mắt càng bé. Có trường hợp khác, lặp đoạn tác động theo  hướng  ngược  lại,  số  đoạn  càng  tăng  thì  kiểu  hình  càng  trở  về  bình thường hơn.


Các kiểu gen hoang dại, Bar và Bar kép tương ứng với các đoạn trên NST khổng lồ.
Sự tăng đoạn Bar như một nhân tố trội về mặt di truyền. Khi nuôi các ruồi Bar đồng hợp tử BB nhận thấy các ruồi hoang dại xuất hiện ở ruồi con với tần số1/1.600 và các ruồi Bar kép cũng xuất hiện với tần số tương tự.  Sự  xuất  hiện  các  kiểu  hình  bất  thường  có  thể  giải  thích  bằng  trao  đổi chéo không cân bằng khi tiếp hợp ở giảm nhiễm I.


1.4. Đảo đoạn (Inversion)
Đảo đoạn xảy ra lúc đoạn trong đứt đi quay 1800  rồi được nối lại
Giả sử trình tự bình thường của đoạn NST là 1-2-3-4-5-6, hai chỗ bị đứt xảy ra ở vùng 2-3 và 5-6 và đoanh bị đứt nối đảo ngược. Như vậy NST có đoạn 1-2-5-4-3-6



http://www.mediafire.com/imgbnc.php/45ed74a1bdf4385ff6dc68a7e2b730225g.jpg

Nguồn gốc của đảo đoạn
Đảo đoạn mang tâm động (Pericentric inversion)


Tâm động nằm bên trong đoạn bị đảo. Trong giảm nhiễm I các NST tương đồng khi tiếp hợp sẽ tạo vòng tròn kép. Nếu trao đổi chéo xảy ra giữa 2 sợi NST đơn trong vùng đảo đoạn thì 2 chromatid đó của mỗi NST thường có  chiều  dài  không  cân  bằng  nhau.  Trong  trường  hợp  này,  một  nữa  sản phẩm của giảm phân vừa có lặp đoạn lại có mất đoạn nên mất sức sống. Nữa khác của các giao tử (không có trao đổi chéo) có sức sống bình thường gồm 1/4 có đoạn với trình tự gen bình thường và 1/4 có đảo đoạn.
Ví dụ ở dị hợp tử có đảo đoạn xảy ra trao đổi chéo ở vùng 3-4. Các NST tái tổ hợp có đoạn trắng đoạn đen đều làm giao tử mất sức sống vì có gen thừa, có gen thiếu.
+ NST đen trắng bên trái có các gen (6-3-4-56) (2 gen 6, thiếu gen 1- 2)
+ NST đen trắng bên phải có các gen (1-2-5-4-3-2-1) (2 gen 1-2, lait hiếu gen 6)
http://www.mediafire.com/imgbnc.php/0824c283b5ea8aa2844f857e67aa8b765g.jpg
Trao đổi chéo xảy ra ở đoạn đảo



http://www.mediafire.com/imgbnc.php/e9e4355d213a2e8185c531cd3f855a4d5g.jpg

Căp nhiêm săc thê di hơp do đao đoan hinh thanh vong trong giam phân
(a) Sơ đô của sư tao vong
(b) Anh chup hiên vi điện tư qua trinh tao vong


Đảo đoạn không mang tâm động (Paracentric inversion)



San phâm  giam phâ n d o kết  qua  trao đ ôi  cheo đơ n  ơ vo ng đ ao đoan không mang tâm động


http://www.mediafire.com/imgbnc.php/0824c283b5ea8aa2844f857e67aa8b765g.jpg
http://www.mediafire.com/imgbnc.php/32419f97d209a2bfd7020f0dd2a8edfc5g.jpg
Tâm động nằm ngoài đoạn bị đảo. Trao đổi chéo xảy ra bên trong đoạn đảo tạo NST  hướng tâm (có 2 tâm động -  dêcntric chromosome)  và trong kì sau I sẽ tạo nên cầu nối, nối 2 cực tế bào. Cầu nối sẽ bị đứt ở bất kì chỗ nào tạo ra các đoạn không cân bằng chứa lặp đoạn hoặc mất đoạn. Ví dụ trường hợp xảy ra trao đổi chéo giữa 4-5
Trao đổi chéo xảy ra ở đoạn không mang tâm động
Các NST không có trao đổi chéo (trắng cả hay đen cả) tạo giao tử có sức  sống,  số  khác  tạo  giao  tử  mất  sức  sống  vì không  cân  bằng  di truyền. Đoạn  không  tâm  động  (acentric  fragment)  tạo  ra  sẽ  bị  mất  vì  không  di chuyển được về cực. Một nữa sản phẩm của giảm phân sẽ mất sức sống vì do thừa và thiếu gen, 1/4 có sức sống bình thường và 1/4 có sức sống với NST có đảo đoạn.

1.5. Chuyển đoạn (Translocation)
Chuyển  đoạn  là  sự  trao  đổi  các  đoạn  giữa  các  NST  không  tương đồng. Trao đổi đoạn có thể xảy ra trong đôi NST tương ứng (thường khác chức năng) như giữa X và Y hoặc giữa các NST khác đôi.

Sự chuyển đoạn thuận nghịch (reciprocal) xảy ra do sự tao đổi các đoạn giữa 2 NST không tương đồng.


Trong giảm phân, các NST có chuyển đoạn tiếp hợp với nhau tạo nên hình chéo. Tiếp theo khi các NST đẩy nhau để về các cực, sẽ có 2 trường hợp:


+  Bốn  NST  vào  cuối  kỳ  trước  I  đẩy  nhau  tạo  nên  vòng  tròn.  Sự  phân  ly trong trường hợp này sẽ tạo nên các giao tử không sức sống vì mang một số NST có dư hoặc thiếu gen. Ví dụ: 1-4-3-4 thiếu 2 và 1-2-2-3 thiếu 4.

+ Sự hình thành số 8 do đẩy chéo nhau giữa các NST. Trong trường hợp này các giao tử được tạo nên có sức sống vì có cân bằng gen (mỗi giao tử đều có 1-2-3-4).


Hai trường hợp trên xảy ra với xác suất như nhau nên các dạng có chuyển đoạn thường nữa bất dụcc (50% giao tử chết). Tiêu chuẩn thứ hai để phát hiện các chuyển đoạn là có sự thay đổi nhóm liên kết gen. Một số gen của  một  nhóm  liên  kết  gen  có  thể  chuyển  sang  nhóm  liên  kết  gen  khác. Ngoài  các  hệ  quả  di  truyền  trên,  chuyển  đoạn  có  thể  gây  hiệu  quả  vị  trí (position  effect).  Các  gen  khi  dời  chỗ  có  thể  có  biểu  hiện  khác,  ví  dụ  từ vùng  đồng  nhiễm  sắc  (euchromatin)  chuyển  sang  vùng  dị  nhiễm  sắc (heterochromatin) ít có hoạt tính hơn.



http://www.mediafire.com/imgbnc.php/4e4521ad615db0fed3ae231774b37bf65g.jpg

Quá trình giảm phân xảy ra ở thể dị hợp chuyển đoạn


Sự  hình  thành  chuyển  đoạn  và  sự  tiếp  hợp  của  chúng  trong  giảm phân I
* Nhiễm sắc thể đều (Isochromosome)
Các NST có hai vai dài không đều nhau có thể chuyển thành NST đều  với  2  vai  bằng  nhau  về  chiều  dài  và  tương  đồng  với  nhau  về  mặt  di truyền nhờ sự phân chia tâm động khác thường vuông góc với sự tách tâm động bình thường.

NST X tâm mút của Drosophila có thể chuyển thành dạng"X dính" do  sự  phân  chia  tâm  động  theo  chiều  vuông  góc  với  bình  thường.  Do  sự phân  chia  khác  thường  đó,  2  chromatid  thay  vì  phân  li  về  2  cựu  lại  dính nhau, có đoạn bị mất.


* Chuyển đoạn Robertson (Robertsonian translocation)


Một chuyển đoạn đặc biệt được gọi là Robertson. Đây là trường hợp hình  thành  NST  tâm  giữa  do  sự  nối  lại  của  2  NST.  Chuyển  đoạn  thuận nghịch được thực hiện giưa 2 NST tâm đầu A và B, khi A bị đứt phía dưới tâm động tạo vai dài mất tâm động, còn B bị đứt ở đầu mút ngắn trên tâm động, 2 đoạn nối nhau tạo NST tâm đều mang tâm động của B. Đoạn có tâm động A với vai ngắn nối với đoạn ngắn của B hình thành NST con có tâm động A. NST con mới có nhiều châtss dị nhiễm sắc không quan trọng nên thường mất đi. Chuyển đoạn Robertson có hậu quả làm giảm số lượng NST.
Sự  hình  thành  NST  tâm  giữa  do  sự  nối  lại  của  2  NST  tâm  đầu (chuyển đoạn Robertson)
Người có 46 NST, các vượn người (hắc tinh tinh, khỉ đột, đười ươi) có 48 NST. NST thứ hai của người gồm hai đoạn giống 2 NST khác nhau của các vượn người. Rất có thể từ tổ tiên chung, một chuyển đoạn Robertson đã tạo nên loài người do sự nối lại của 2 NST khác nhau, làm giảm số lượng còn 46 thay vì 48 như ở các loài vượn người.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

kkkp[[[[[[[
Được tạo bởi Blogger.