Home » , » Phân tích bộ bốn và lập bản đồ ở vi nấm

Phân tích bộ bốn và lập bản đồ ở vi nấm

Nấm  men  có  nhiều  đặc  trưng  để  trở  thành  mô  hình  lý  tưởng  cho nghiên cứu di truyền ở eukaryote. Nấm men là một eukaryote đơn bào, chu kỳ sống chỉ khoảng 90 phút, có thể thu đuợc nấm men với số lượng lớn khi nuôi trên môi trường đặc. Bộ gen của nấm men chứa khoảng 12 megabase với 6.000 gen phân bố  trên 16 nhiễm sắc thể. Nấm men là eukaryote  đầu tiên được giải mã bộ gen. Chu trình sống của nấm men gồm hai giai đoạn có thể chuyển đổi qua lại. Tế bào có thể tồn tại ở cả dạng lưỡng bội và cả dạng đơn bội. Trong cả hai trường hợp, tế bào mẹ tạo chồi giống hệt nó. Những tế bào lưỡng bội này có thể tiếp tục sinh trưởng bằng mọc chồi và có thể trãi qua giảm phân tạo 4  bào  tử đơn bội  (haploid)  trong một  nang (ascus)  được gọi  là tetrad. Bào tử đơn bội (haploid spore) của kiểu kết cặp khác nhau (a với a) sẽ qua thụ tinh tạo thể lưỡng bội. Những bào tử của kiểu kết cặp giống nhau sẽ tiếp tục sinh trưởng bằng nẩy chồi.

Nấm men được xem là E. coli của các tế bào eukaryote, có thể sử dụng nấm men để phân tích đột biến. Tế bào nấm men đơn bội được gây đột biến bằng tia X, sau đó sàng lọc các kiểu hình đột biến trên môi trường nuôi cấy. Đầu tiên nuôi cấy tế bào nấm men trên môi trường giàu dinh dưỡng để tất cả các tế bào phát triển. Đĩa nuôi cấy này sau đó được nhân lên qua đĩa sao chép chứa môi trường chọn lọc hoặc điều kiện sinh trưởng đặc biệt. Chẳng hạn,  các  đột  biến  nhạy  cảm  nhiệt  độ  có  thể  sinh  trưởng  trên  các  đĩa  gốc nhưng lại không sinh trưởng trên các đĩa sao chép ở nhiệt độ giới hạn. So sánh các khuẩn lạc ở đĩa gốc với đĩa sao chép sẽ phát hiện được những đột biến nhạy cảm với nhiệt độ.

Chu trình sống của nấm men

Lớp nang khuẩn (Ascomycetes) có đặc điểm là khi các tế bào lưỡng bội phân chia giảm nhiễm sẽ tạo ra các bào tử nằm trong một vỏ bao được gọi là nang (ascus). Các cơ thể này có các đặc điểm thuận lợi cho phân tích di truyền:

Các vi nấm có thể tồn tại ở dạng đơn bội, nên tất cả các gene có thể biểu hiện trực tiếp thành kiểu hình.

Các vi nấm này có thể tạo ra số lượng cá thể lớn ở thế hệ sau nên có thể phát hiện các sự kiện di truyền hiếm và có thể ước lượng được tần số tái tổ hợp một cách chính xác.

Tế bào nấm men có thể sống ở dạng sinh dưỡng đơn bội hay dị bội. Tín hiệu chuyển từ đơn bội sang dị bội xuất hiện theo dạng kết hợp và tín hiệu  chuyển  từ  dị  bội  sang  đơn  bội  là  sự  giảm  phân  trong  quá  trình  hình thành bào tử.
http://www.mediafire.com/imgbnc.php/42beab229018f4ae451c64ce2b32f8006g.jpg
Mốc vàng bánh mì (Neurospora crassa) là mô hình nghiên cứu phân li trong giảm phân

Trong chu trình sống, chỉ có hợp tử là lưỡng bội, sẽ trải qua giảm phân ngay sau khi được tạo thành, tạo các bào tử đơn bội, bào tử nẩy mầm hình thành giai đoạn cây.  Ở một số loài các bộ bốn tạo thành trải qua một lần phân chia nguyên nhiễm nữa để tạo ra từng cặp gồm hai bào tử giống hệt nhau.  Ở  mốc  vàng  bánh  mì  (N.  crassa),  các  bào  tử  xếp  thảng  hàng  trong nang theo một trật tự xác định liên quan trực tiếp đến tiến trình của giảm phân. Hầu hết các loại nấm mốc khác, sản phẩm của giảm phân không sắp xếp theo một trật tự đặc biệt trong nang như mốc vàng bánh mì.

- Lập bản đồ di truyền bằng phân tích bộ bốn

Đối với trường hợp bộ bốn không theo thứ tự:

Ví dụ: khi lai các tổ hợp của hai gene AB ´ ab. Sự thụ tinh cho nhân lưỡng bội AB/ab  và nó chia giảm nhiễm ngay.

Nếu không có trao đổi chéo xảy ra hoặc  trao đổi chéo đôi xảy ra trên cùng hai chromatid thì sẽ có bộ bốn: 2 AB : 2ab, gọi là kiểu đôi cha mẹ (parental ditype – PD).

Nếu trao đổi chéo xảy ra trên cả bốn chromatid của mỗi cặp nhiễm sắc thể kép, sẽ có 2AB : 2aB, gọi là bộ bốn kiểu đôi không cha mẹ (Nonparental ditype – NPD) hay còn gọi là kiểu đôi tái tổ hợp (Reconbinational ditype- RD)

Trường hợp tạo ra mỗi nang bốn loại bào tử có kiểu gene khác nhau: 1AB :

1Ab : 1aB : 1ab được gọi là kiểu bốn (tetratype)

Phân tích  bộ bốn  cho phép xác định hai gene liên  kết. Khi hai gene không liên kết thì tần số bộ bốn kiểu đôi bố mẹ và kiểu đôi không bố mệ bằng nhau (PD = NPD). Ngược lại khi hai gene liên kết, kiểu PD có tần số lớn hơn kiểu NPD. Tần số tương đối của các kiểu bộ bốn khác nhau được sử dụng để xác định bản đồ khoảng cách giữa hai gene liên kết.
http://www.mediafire.com/imgbnc.php/894685659fc1bb25c47e29fc8d868c9d6g.jpg
Phân tích bộ bốn

Nguồn: thuviensinhhoc.com

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

kkkp[[[[[[[
Được tạo bởi Blogger.