Con cái luôn được thừa hưởng một hoặc vài tố chất nào đó giống bố mẹ (ví dụ: nét cười, cặp mắt, màu da, mái tóc…). Những nét/điểm/tố chất/tính trạng (được thừa kế) này tiếng Anh gọi là trait. Và di truyền (inheritance) là đề cập đến việc truyền trait từ bố mẹ sang con cái. Từ xa xưa, con người đã biết điều này và tạo ra các giống cây trồng, vật nuôi có trait tốt bằng cách lựa chọn bố tốt và mẹ tốt, ví dụ: lai hai con ngựa tốt để con của nó cũng có khả năng chạy nhanh, cây cho quả to và sai quả … Tuy nhiên, người ta vẫn chưa có được một phương pháp khoa học để có thể dự đoán được đầu ra sẽ có traits như thế nào nếu lựa chọn hai cả thể bố mẹ cụ thể nào đó.
Mendel là người đầu tiên nghiên cứu điều này. Ông dùng cây đậu Hà Lan (pea plants) để nghiên cứu sự di truyền dựa trên một số trait nhất định: màu sắc và kích thước.
Cây đậu Hà Lan có đặc điểm là có khả năng tự thụ phấn, nên sau một vài thế hệ, chúng là thuần chủng. Ban đầu, ông xem xét một tính trạng màu sắc của hạt bằng cách lai chéo cây có hạt vàng (yellow) với cây có hạt xanh (green). Kết quả là mọi con cái (progeny) ở thế hệ con cái đầu tiên (first filial generation – F1) đều có hạt vàng (nghĩa là chỉ xuất hiện trait của một trong 2 cây gốc, cụ thể là cây có hạt màu vàng). Cùng với một số thí nghiệm khác cho kết quả tương tự, Mendel kết luận rằng trait không phải được qui định bởi một nhân tố riêng rẽ, mà là một cặp nhân tố cùng loại, có thể cùng hoặc khác trạng thái. Nhân tố này tồn tại ở hai trạng thái: trội (dominant) và lặn (recessive). Ông dùng chữ cái HOA để thể hiện nhân tố trội, ví dụ A; và chữ cái thường để thể hiện nhân tố lặn, ví dụ: a.
Như vậy, tuỳ vào cấu trúc của trait, mà kiểu hình thể hiện ra bên ngoài của trait sẽ khác nhau. Cụ thể là mỗi trait sẽ được qui định bởi 1 cặp nhân tố hay còn gọi là “đặc tính di truyền” (trội, lặn) và tuỳ vào sự kết hợp của cặp nhân tố này mà chúng được phân ra là cặp đồng nhất (homozygote, ví dụ: AA, aa) và không đồng nhất (heterozygote, ví dụ: Aa, aA). “đặc tính di truyền” (inherited characteristics) là thuật ngữ đặt ra bởi Mendel, và sau này được biết đến với cái tên “gene“; đồng thời, mỗi biểu hiện cụ thể của gene (trội, lặn) được gọi là allele.
Mendel đã kết luận rằng, biểu hiện bên ngoài (phenotype) của một cá thể phụ thuộc vào đặc tính di truyền bên trong (genotype). Ông cũng kết luận rằng mỗi đặc tính di truyền tồn tại theo cặp: một cái mang đặc tính trội và một cái mang đặc tính lặn. Điều này tương ứng với mỗi loại allele, ta gọi là allele trội và allele lặn. Nếu kiểu hình trội được biểu hiện, ta gọi là gene trội (Aa, AA, aA); ngược lại ta gọi là gene lặn.
Chính vì cây đậu Hà Lan tự thụ phấn một cách tự nhiên, nó không lai tạp trait từ các cây khác, nên có thể nói rằng cây thuần lai (purebred) luôn có sẵn. Một cây được gọi là thuần lai cho một trait nào đó nếu nó là hemozogyte. Ví dụ: một cây thuần lai với tính trạng thuần là quả màu vàng thì luôn cho ra cây con cũng có quả màu vàng.
QUI ƯỚC: Kí hiệu chữ hoa biểu hiện cho gene trội và chữ thường biểu hiện cho gene lặn.
“Allele is one of the variant forms of a gene at a particular locus, or location, on a chromosome”
LINK:
- http://www.mendelweb.org/MWpaptoc.html (Cái bài báo của Mendel)
- http://bioweb.wku.edu/courses/BIOL115/Wyatt/wku/definitions.htm
0 nhận xét:
Đăng nhận xét